Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

Lòng kiên trì và lòng tin

Mời bạn hãy cùng đọc câu chuyện về lòng kiên trì sau, để cho cảm xúc được trào dâng để cho trái tin được mở ra, cho lòng tin được vững mạnh.

Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng "cần nâng đỡ" mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là "trơ nhạc". Một trong những học sinh đó là Robby.

Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu cất cả các học sinh của mình đều phải học. Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: "Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn". Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu.

Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. "Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…", cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng.

Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể "chữa cháy" cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục "hạ màn" của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. A? quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

"Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ "Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ? "

Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: "Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó? ". Robby giải thích qua chiếc micro "Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt".

Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào "cần nâng đỡ", nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn.

Nhị Tường dịch
Nguồn Reader’s Digest

Tình yêu của Robby dành cho mẹ quá lớn, quá cao vời. Lòng kiền trì đã giúp Robby đạt được ước nguyện của người mẹ bị điếc và bị ung thu. Lòng kiên trì gắn kết với niềm tin, tin rằng mẹ của Robby đã nghe được bản nhạc do chình đôi bàn tay của người con đánh lên trong ngày bà không con ở dương thế. "Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt".

Đọc câu chuyện cảu Robby khi tôi suy niệm Lời CHúa hôm nay khi Chúa dùng dụ ngôn người đàn bà kiên trì để dạy cho tôi trong đời sống cầu nguyện cùng phải có lòng kiên trì và lòng tin vào điều mình cầu xin. 
Xin cho con biết nhớ tới lời dạy của Chúa: Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kịp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

Thứ Bảy Tuần XXXII Thường Niên
Lời Chúa: 
 Lc 18,1-8
1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng 2 mà rằng:
"Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. 3 Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. 4 Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, 5nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc' ".
6 Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó.7 Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? 8Thầy bảo các con, Chúa sẽ kịp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2015

Cách chỉnh sửa ảnh ngược sáng đẹp hơn với photoshop

Cách chỉnh sửa ảnh ngược sáng đẹp hơn với photoshop 

Cách chỉnh sửa ảnh ngược sáng đẹp hơn với photoshop cs3 cs4 cs5 cs6

Khi chụp ảnh ngoài trời đặc biệt là khi trời năng to nếu không chụp thuận chiều ánh sáng bức ảnh của bạn sẽ bị ngược sang làm chủ thể chính của bức ảnh bị tối đi so với khung cảnh nền

Tuy nhiên chúng ta có thể dễ dàng chỉnh sửa lỗi này với photoshop, trong bài này vforum sẽ giới thiệu tới các bạn 2 cách để thực hiện, tuy nhiên nên chọn cách thứ 2 để bức ảnh trông đẹp hơn.


Cách 1:

Sau khi mở hình ảnh lên nhấn tổ hợp phím Ctrl + M (Image/ Adjustment/ Curver) sau đó điều chỉnh thuộc tính tương tự hình vẽ, tùy theo hình ảnh mà bạn có thể chỉnh các thông số khác đi sao cho bức hình nhìn hài hòa nhất.


Cách 2:
Sử dụng vùng chọn và các chế độ trộn màu. Mở file ảnh Chọn Window / Channels để chọn các kênh màu.


Load vùng chọn trên kênh màu có độ tương phản cao. Ctrl + Click vào channels (Load vùng chọn là phần sáng của ảnh) Chọn Select / Invert (Ctrl + Shift + I) để đảo vùng chọn. Chọn lại Channels RGB và chọn bảng layer -> Nhấn Ctrl + J (Copy layer).
Sưu tầm

Tạo hiệu ứng chữ 3D đẹp trong photoshop

Tạo hiệu ứng chữ 3D đẹp trong photoshop 

Hiệu ứng chữ 3D đẹp trong photoshop cs3 cs4 cs5 cs6

Hiệu ứng chữ trong photoshop thì có rất nhiều kiểu khác nhau tùy theo nhu cầu của người thiết kế, dưới đây là 1 dạng hiệu ứng chữ 3D khá đẹp mọi người có thể tham khảo

Trước tiên các bạn tiến hành mở photoshop lên và tạo 1 project mới, viết chữ cần tạo

Bước 1


Nên chọn những font chữ hợp lý ví dụ như kiểu dưới đây

Bước 2

Vào Effect > 3D > Extrude & Bevel… Nhập các nhân tố khả biến nơi tôi đã đánh dấu bên dưới.

Bước 3

Thậm chí sau khi bạn gắn các hiệu ứng 3D, bạn có thể tiếp tục xoay chữ cái theo bất cứ Angle nào bạn thích, như tôi đã thực hiện bên dưới. Chỉ cần sử dụng Selection Tool (V) để xoay chữ cái.Nhấp chuột lên một màu sắc và việc tạo bóng sẽ tự động được gắn vào các bề mặt khác nhau của chữ cái.


Bước 4

Sử dụng kỹ thuật tương tự trên các chữ cái khác. Sử dụng Palette Swatches để chọn nhanh một loạt màu sắc sống động và gắn chúng vào từng chữ cái.


Bước 5

Tạo độ sâu của Field (bề mặt của các Object gần và xa) bằng cách vào Effect > Blur > Gaussian Blur…Nhập các nhân tố khả biến bên dưới và nhấp OK.Chú ý: Hãy chắc chữ cái của bạn sẽ không bị scale rộng hơn hoặc nhỏ hơn sau khi bạn gắn Blur, vì các hiệu ứng Blur không scale dù cho bạn đã thiết kế nó trong Adobe Illustrator.

Bước 6

Để tạo ra một phạm vi rộng hơn, bạn có thể mang lại cho các chữ cái khác nhau một Blur Amount độc đáo.Quan sát để cảm nhận Angle, Scale, Blur và màu sắc của toàn bộ yếu tố trong toàn bộ text. Mỗi một chữ cái có chất lượng ngẫu nhiên. Scale rất khác nhau về khoảng cách đề nghị. Một lần nữa, Blur củng cố thêm chiều sâu và màu sắc của toàn bộ text sẽ là màu tươi sáng và không lặp lại cạnh nhau.

Bước 7

Nhập phần còn lại của cụm từ. Font chữ tôi đang sử dụng là Bickham Script. Như bạn có thể thấy, font chữ này rất khác biệt so với font chữ trong từ “Playful” đã được viết. Điều này sẽ tạo nên một phạm vi và sự tương phản độc đáo giữa 2 từ. Thực hiện tương tự đối với layout của bạn.


Bước 8

Sử dụng Rounded Rectangle Tool để vẽ một hình chữ nhật như hình dưới đây.Lưu ý: Bạn có thể điều chỉnh độ cong của góc bằng cách giữ mũi tên lên hoặc xuống trong khi bạn vẽ hình chữ nhật này.

Bước 9

Làm đầy hình chữ nhật với 3 điểm gradient. Bên phải – hầu hết là màu lục sẽ tạo ra một màu lục đậm hơn một chút và sẽ tạo khung cho hình chữ nhật.


Bước 10

Di chuyển text lên background. Để gắn một gradient lên text, đầu tiên bạn sẽ cần chuyển nó vào trong các bản phác thảo. Vào Type > Create Outlines. Bây giờ, chọn text và đưa một màu xám tinh tế cho gradient trắng.


Bước 11

Để làm cho text trông 3D hơn, thêm một Inner Glow bằng cách vào Effect > Stylize > Inner Glow… Select Screen, trong Mode drop down. Nhập Opacity khoảng 75 và thiết lập Blur theo ý thích của bạn.


Bước 12

Bây giờ, chữ cái trông hơi tròn, chúng ta sẽ chuyển sang bước tiếp theo và thêm một Drop Shadow…Thiết lập Mode sang Multiply (để shadow hòa trộn một cách độc đáo với background). Thiết lập Opacity của bạn xuống khoảng 20 và mang cho nó một Blur theo lựa chọn của bạn.


Bước 13

Đây là những gì thiết kế của bạn sẽ thực hiện được cho đến bây giờ.


Bước 14

Chúng ta sẽ nâng cấp bề mặt của từng chữ cái bằng cách thêm các gradient. Đầu tiên, tạo một bản copy của chữ cái. Chọn bản copy và vào Object > Ungroup. Tiếp tục Ungroup object cho đến khi bạn có thể chọn bề mặt của object.


Bước 15

Chọn bề mặt của chữ cái và mang cho nó một gradient màu đỏ – đen.


Bước 16

Bạn có thể xóa các phần còn sót lại của chữ cái không được gắn gradient. Đặt bề mặt của chữ cái lên trên các chữ cái với các hiệu ứng 3D được gắn vào đó.


Bước 17

Sử dụng kỹ thuật tương tự để tạo chiều sâu trên các chữ cái khác nếu cần thiết. Đối với những nơi các chữ cái bị làm mờ, chỉ cần gắn Blur tương tự cho bề mặt chữ cái đó. Để xem chữ cái đã được làm mờ bao nhiêu, nhấp đúp lên hiệu ứng đó trong Appearance Palette.

Bước 18

Tiếp theo, chúng ta sẽ đưa vào background một vòng tròn ngẫu nhiên. Vẽ một vòng trong bằng cách sử dụng Ellipse Tool (L). Đối với mục đích của hướng dẫn này, tôi sẽ sử dụng một vòng tròn màu đen, nhưng vòng tròn của bạn có thể là màu trắng hoặc bất cứ màu nào bạn thích. Drag vòng tròn vào trong Brushes Palette. Hộp thoại sẽ mở trong bước tiếp theo…


Bước 19

Chọn New Scatter Brush và nhấn OK …


Bước 20

Chọn kích thước, không gian và Scatter ngẫu nhiên, drag các hình tam giác nhỏ sang các bên của slider đối với cả 3 lựa chọn. Điều này sẽ đảm bảo mẫu hình tròn rất đa dạng và không phải lặp lại nhiều quá. Nhấp OK.


Bước 21

Trong Palette Brushes chọn brush vòng tròn bạn vừa tạo ra. Chọn Paintbrush Tool (B) và vẽ một Line bất kỳ. Line của bạn sẽ được lặp lại bằng một vòng tròn tương tự với vòng tròn bên dưới. Nếu các vòng trong của bạn không ngẫu nhiên như bạn muốn, chỉ cần kích đúp lên vòng tròn trong Brushes Palette để thay đổi các thông số.


Bước 22

Đặt các vòng tròn trên layer riêng của nó đằng sau các chữ cái. Hãy thoải mái vẽ thêm các Line hoặc copy và paste các mẫu vòng tròn khác để thiết lập một khối vòng tròn lớn.


Bước 23

Sử dụng Ellipse Tool để vẽ một vòng tròn và sử dụng một Radia làm đầy với 3 điểm gradient. Việc sử dụng 3 điểm sẽ cho phép bạn tạo một nét nổi bật bên ngoài vòng tròn để làm cho nó thêm hiện thực. Copy và Paste hình tròn này một vài lần trong layout.


Bước 24

Bạn có thể tạo ra các Brush khác bằng cách sử dụng các hình dạng khác như hình vuông, hình tam giác và các phiên bản phác thảo của mỗi hình dangk sẽ mang lại nhiều điều thú vị.


Bước 25

Sử dụng Pencil Tool (N) để vẽ một số hình dạng tản mạn nó sẽ có chức năng như những đám rêu hoặc cây dại trên các chữ cái.
Khi bạn vẽ bằng Pencil Tool, sẽ có một chút khó khăn để làm khít hình dạng này. Cách dễ nhất để làm khít một hình dạng như vậy là giữ phím Option khi bạn đang tiến lại gần điểm bắt đầu của hình dạng. Làm như vậy nó sẽ tự động làm khít hình dạng.


Bước 26

Thêm các loại hình dạng khác và đưa vào đó một gradient từ màu lục sang màu lục sẫm.


Bước 27

Để tạo cây nho, tôi chỉ cần sử dụng một ký tự chữ thay thế, ký tự đó thuộc font chữ Bickham Script. Nếu font chữ của bạn không có các ký tự chữ thay thế, bạn có thể thử bằng cách sử dụng các phần của các chữ cái khác, như chữ S chẳng hạn. Nếu không bạn sẽ phải vẽ một số hình dạng xoắn, theo cách cổ điển….bằng cách sử dụng Wacom Tablet và Pen Tool.


Bước 28

Tạo một hình lá cây cũng theo cách tương tự bạn đã tạo ra với các hình dạng đám rêu. Bạn sẽ có các kết quả tốt hơn nếu bạn thực hành nhiều hơn.


Bước 29

Để mở rộng bề mặt của lá, đưa vào đó một Inner Glow bằng cách vào Effect > Stylize > Inner Glow…


Bước 30

Đây là những gì layout của chúng ta có cho tới bây giờ.


Bước 31

Chúng ta sẽ làm cho background thêm một chút chuyển động bằng cách sử dụng Pen Tool (P) để vẽ một hình dạng tương tự như bên dưới.


Bước 32

Sao chép hình dạng này một hai lần và điều chỉnh Opacity để làm giảm bề mặt của hình. Tăng thêm một số hình dạng mỏng manh, mờ ảo để tạo ảo giác cuộn xoáy.


Bước 33

Sử dụng Rectangle Tool, vẽ một hình chữ nhật và đưa vào đó 4 điểm gradient và với màu trắng ở phần cuối của cả 4 điểm.


Bước 34

Đặt gradient trên background và làm cho nó mờ đi. TrongTransparency Palette, thiết lập hình dạng sang Multiply, để cho nó hòa trộn thật tốt với background. Hãy thoải mái điều chỉnh Opacity nếu bạn thấy cần thiết.


Hình ảnh cuối cùng

Đây là hình ảnh của tác phẩm chúng ta vừa tạo ra. Bạn vừa hoàn thành thiết kế Vector 3D Text. Xin chúc mừng.

Nguồn: Sưu tầm internet

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN:Chụp ảnh báo chí (P16)

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN:Chụp ảnh báo chí (P16)

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN:Chụp ảnh báo chí (P16)
ảnh báo chí ở Việt Nam hầu như chỉ tồn tại ở 2 hình thức: tin ảnh và phóng sự ảnh. Tin ảnh là một bức ảnh duy nhất chụp một sự kiện vừa diễn ra với lời chú thích ảnh nêu rõ ai, việc gì, ở đâu, ra sao và tại sao theo đúng yêu cầu cơ bản của một bản tin vắn -nhưng ở đây hình ảnh lại chính là thông tin chủ yếu. Trong khi đó, phóng sự ảnh lại là một tập hợp nhiều hình ảnh tường thuật lại một sự kiện hay một chủ đề mang tính thời sự.

Phần 1: Mục lục

 

Phần 2: Overture 

 

Phần 3: Máy ảnh số và nhiếp ảnh số 


3.1Chọn máy ảnh
3.2 Có những gì trong một dCam?
3.3 Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
3.4 Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
3.5 Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography
3.6 Kính lọc 

Phần 4: Kỹ thuật chụp ảnh 

4.1 Kỹ thuật căn bản
4.2 Nguyên tắc chụp ảnh
4.3 Độ nét sâu của trường ảnh
4.4 Tốc độ chụp ảnh
4.5 Các chế độ đo sáng
4.6 Các hiệu chỉnh khác 

Phần 5: Ngôn ngữ nhiếp ảnh 

5.1 Less is more
5.2 Tương phản trong Nhiếp ảnh
5.3 Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
5.4 Bố cục ảnh
5.5 Yếu tố phụ trong bố cục
5.6 Đường nét trong bố cục
5.7 Bố cục và sáng tạo
5.8 Các yếu tố hình họa của hình ảnh
5.9 Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
5.10 Chụp ảnh chân dung
5.11 Ánh sáng trong ảnh chân dung
5.12 Chụp ảnh phong cảnh
5.13 Chụp close up và ảnh hoa
5.14 Chụp ảnh báo chí 

Phần 6: Xử lý ảnh 

6.1 Hiểu thêm về các thông số của ảnh
6.2 RAW vs JPEG
6.3 Kỹ thuật chuyển ảnh mầu sang đen trắng
6.4 Kỹ thuật xử lý ảnh Đen Trắng trong buồng tối
6.5 Tối ưu ảnh trước khi up lên site
6.6 Làm border ảnh bằng Photoshop và vấn đề giữ exif
6.7 Khắc phục Out nét
6.8 Cứu ảnh bị xóa trên thẻ nhớ
6.9 In ảnh tại Labs 

Phần 7: Mẹo vặt và hỏi đáp 

7.1 Kinh nghiệm chụp cho người mới bắt đầu
7.2 Tạo hiệu ứng sao cho đèn đêm mà không cần kính lọc
7.3 Hiệu ứng zoom
7.4 Mẹo đo sáng thay thế
7.5 Bồi đèn trong chụp tốc độ chậm
7.6 Kính lọc màu cho đèn và ống kính:
7.7 Nghệ thuật xem ảnh
7.8 Tăng giảm bù trừ sáng (EV+/-)
7.9 Bù trừ sáng (EV)
7.10 Kinh nghiệm đo sáng
7.11 Đặt tên cho ảnh
7.12 Bóng đổ - bóng ngả - bóng đối xứng - bóng khối
7.13 Tone màu?
7.14 Chế độ chụp
7.15 Lấy nét - chế độ màu
7.16 AEB
7.17 Chụp cảnh hoàng hôn
7.18 Cỡ ảnh, kỹ thuật chụp đêm
7.19 Chụp ảnh lưu niệm
7.20 Chụp ảnh khi trời mưa
7.21 Chụp ảnh khi trời gió
7.22 Mưa đêm và những tia chớp
7.23 Chụp ảnh trong sương mù
7.24 Chụp ảnh khi tuyết rơi
7.25 Chụp ảnh biển
7.26 Chụp ảnh chân dung
7.27 Chụp pháo hoa
7.28 Bảy lời khuyên cho chụp ảnh nội thất
7.29 Căn chỉnh màn hình máy tính của bạn
7.30 So sánh Canon và Nikon
7.31 Noise - vỡ hạt ảnh
7.32 Xử lý bụi bám trên sensor
7.33 Khẩu độ sáng
7.34 Nghệ thuật và sự dung tục
7.35 Hệ số nhân tiêu cự
7.36 Ảnh đen trắng trong thời đại số
7.37 Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh?

Phần cuối: Thông tin về sách
 

Phần 5: Ngôn ngữ nhiếp ảnh 

5.1 Less is more
5.2 Tương phản trong Nhiếp ảnh
5.3 Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
5.4 Bố cục ảnh
5.5 Yếu tố phụ trong bố cục
5.6 Đường nét trong bố cục
5.7 Bố cục và sáng tạo
5.8 Các yếu tố hình họa của hình ảnh
5.9 Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
5.10 Chụp ảnh chân dung
5.11 Ánh sáng trong ảnh chân dung
5.12 Chụp ảnh phong cảnh
5.13 Chụp close up và ảnh hoa 

5.14 Chụp ảnh báo chí


Các tài liệu tham khảo:

1. Nghề làm báo
2. Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý
3. Các thể loại báo chí
4. Phóng sự báo chí hiện đại
5. Ảnh báo chí
6. Nghệ thuật thông tin
...

Các tài liệu sẽ được bổ xung tên tác giả, nhà xuất bản sau nếu bạn nào muốn quan tâm

Trong các thể loại ảnh như ảnh thời trang, ảnh tư liệu, ảnh quảng cáo, ảnh mỹ thuật thì Ảnh báo chí được coi là gần với Ảnh nghệ thuật nhất. Nhiều tấm ảnh báo trí ngày xưa nay đều được nằm trong những tuyển tập Ảnh nghệ thuật của thời đại

1. Khái niệm về ảnh báo chí:


Không kể các hình ảnh minh họa, ảnh báo chí ở Việt Nam hầu như chỉ tồn tại ở 2 hình thức: tin ảnh và phóng sự ảnh. Tin ảnh là một bức ảnh duy nhất chụp một sự kiện vừa diễn ra với lời chú thích ảnh nêu rõ ai, việc gì, ở đâu, ra sao và tại sao theo đúng yêu cầu cơ bản của một bản tin vắn -nhưng ở đây hình ảnh lại chính là thông tin chủ yếu. Trong khi đó, phóng sự ảnh lại là một tập hợp nhiều hình ảnh tường thuật lại một sự kiện hay một chủ đề mang tính thời sự. Khái niệm về tin ảnh là một khái niệm tương đồng giữa báo chí Việt Nam và báo chí quốc tế nhưng chính khái niệm phóng sự ảnh lại có nhiều điểm dị biệt. Những hình thức mà chúng ta thường gọi chung là "phóng sự ảnh" lại được báo chí quốc tế phân định thành bốn nhóm khác nhau:

1.1. PHOTO STORY: Phóng cách phóng sự ảnh lâu đời nhất và đơn giản nhất, đặc trưng bằng một loại ảnh thuật lại một sự việc với một chủ đề cụ thể. Ví dụ: đời sống người dân chài, ô nhiễm môi trường ở khu chung cư mới,...). Mặc dù sự việc được tường thuật bằng hình ảnh, một bài viết ngắn tổng quát và những chú thích ảnh chi tiết phải đi kèm với hình ảnh. Cái này chúng ta tạm gọi là PHÓNG SỰ ẢNH.

1.2. PHOTO PORTFOLIO: Thuật ngữ này hiện nay được các nhà nhiếp ảnh hay phóng viên ảnh sử dụng để trình bày một tập hợp nhiều bức ảnh riêng lẻ hoặc nhiều loạt ảnh khác nhau. Ở phương Tây, photo porfolio chính là cách tự giới thiệu tốt nhất của một nhà nhiếp ảnh hay phóng viên ảnh khi đi xin việc làm. Trong nghề báo, thuật ngữ này cũng được dùng để chỉ một tập hợp ảnh báo chí nhưng không nhất thiết phải có một chủ đề duy nhất và cụ thể. Ví dụ: một bộ photo porfolio gồm 10 bức ảnh về "Thành Phố Hồ Chí Minh hôm nay" hay "Hà Nội đón xuân",... Chúng ta tạm gọi là Ảnh Bộ.

1.3. PHOTO FEATURE: Thuật ngữ này được hãng thông tấn Asscociated Press (AP) cùng nhiều hãng tin khác sử dụng để chỉ một bức ảnh duy nhất hay một tập hợp ảnh nhỏ gồm những hình ảnh không mang tính chất thời sự hay tin tức. Đó là một hay nhiều bức ảnh không có thời gian tính và thường dùng để minh họa nhẹ nhàng cho các chuyên mục đặc biệt. Ta tạm gọi là ẢNH CHUYÊN MỤC. Ảnh chuyên mục - dù là ảnh đơn hay ảnh bộ - cũng có thể là ảnh chụp phong cảnh, thú vật, thời trang trẻ em, những sự kiện khôi hài... nhưng phải đem lại cho độc giả điều gì đó mới lạ về thế giới chung quanh. Mọi nhật báo ngày nay đều cần cả những ảnh thời sự nóng bỏng lẫn những ảnh đời thường để cho trang báo có nội dung mở và bớt nặng nề.

1.4. PHOTO ESSAY: Đây là hình thức ảnh báo chí được hình thành và phát triển từ những năm 1920, chủ yếu ở Đức và Pháp. Photo Essay có thể đề cập đến một chủ đề nghiêm túc (chẳng hạn như các vấn đề xã hội, kinh tế, môi sinh,...) nhưng cũng có thể tập trung vào cuộc sống và công việc của những nhân vật nổi tiếng trong thế giới nghệ thuật, chính trị, hay cũng có thể tập trung vào các chủ đề như mỹ thuật, sân khấu, văn học, kiến trúc, lịch sử,.... Trong các thể loại ảnh báo chí, phóng sự và bút ký là hai thể loại tương đương nhưng phóng sự mang đậm chất thông tấn, còn bút ký in rõ dấu ấn văn chương. Photo Essay cũng giống như một bài bút ký, tác giả có thể bộc lộ những cảm xúc riêng tư và những phản ứng chủ quan từ tâm hồn mình. Nhiều photo essay nổi tiếng ngày nay được xem như những tác phẩm của nghệ thuật nhiếp ảnh. Chúng ta tạm gọi photo essay là bằng từ Ký Sự Ảnh.

Báo chí nói chung có thể xếp thành 4 loại:

- Báo viết
- Báo nói
- Báo hình (báo chí truyền hình)
- Báo điện tử

và ảnh báo chí từ trước đến nay gắn với báo viết là nhiều, chúng ta chắc ai mà trong tuần, trong ngày mà chả đọc một vài tờ báo. Lúc thì về Thể thao, Mua bán, An ninh, Thời báo kính tế... Giả sử những hình ảnh Văn Quyến trong trại giam hay thầy Hồ không có mặt trong các trang viết trên các báo, chắc sẽ giảm sự quan tâm và hấp dẫn người đọc khi xem bài đó ở các báo. Chúng ta có thể không nhớ hết nội dung của bài báo mà chúng ta quan tâm, nhưng hình ảnh "đặc trưng" sẽ còn đọng mãi.

Ảnh báo chí (ABC) được coi như câu chuyện bằng hình ảnh, máy ảnh là cây bút là phương tiên ghi nhận một khoảnh khắc trong thời gian, cái phút giây điển hình khi hình ảnh đúc kết một câu chuyện. Mà chúng ta đã "tranh luận" khá nhiều - cái mà ông Henri Cartier-Bresson gọi là "Khoảnh khắc quyết định".

Câu chuyện ở đây rất đa dạng, có thể là một bức ảnh thời sự vừa nóng vừa thổi, ở những nơi chiến tranh ác liệt, một pha tranh bóng gay cấn, một phóng sự về Tây tạng huyền bí gian nan và cũng gần hao mất con Nikon D200 như IMIM, cái bắt tay lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải với Tổng thổng Mỹ G.Bush trên đất Mỹ, hay đơn giản là cuộc họp của thường vụ huyện Simacai chỉ đạo cho chuyến đi vừa qua của chúng ta, cũng có thể là một bức chân dung của con người trong một sự kiện nào đó... Tất cả đều là ảnh báo chí, bởi dù lớn hay nhỏ dù nó là "đỉnh cao" hay "đỉnh thấp", nhưng những khoảnh khắc ấy là thành phần mật thiết của lịch sử, gìn giữ những khoảnh khắc cho tương lai.

2. Đạo đức nghề nghiệp của phóng viên ảnh:


Vậy khái niệm cơ bản về ABC chúng ta đã có. Túm lại là:
Tường thuật bằng hình ảnh
Tóm khoảnh khắc điển hình
Cái "khoảnh khắc quyết định"
Đó là Ảnh báo chí.


Làm điều gì nếu muốn thành công cũng phải có sự đam mê, chụp ABC cũng không ngoại lệ. Những nó khác các nhà nhiếp ảnh ở chỗ: Trước khi người phóng viên ảnh (PVA) chụp ảnh, anh ta phải là một nhà báo, rồi sau đó mới là một nhà nhiếp ảnh.

Vậy thì trước hết đạo đức của người làm báo, PVA phải tuân thủ. Người ta vẫn còn tranh cãi là đạo đức nghề nghiệp nhà báo có trước hay có sau nghề báo. Người ta cũng nói rằng Xêda là người đầu tiên có ý tưởng đàm đạo với bè bạn, những vấn đề cấp thiết bằng thư từ, khi mà sự bận rộn không cho phép gặp nhau trực tiếp. Đó là sự giao tiếp linh hoạt, không qua trung gian, còn khi đọc báo. Nhà báo đã là trung gian để đưa những thông tin đến người đọc, chính vì vậy mà đòi hỏi "đạo đức" luôn được đề cao ở những Nhà báo.

Vấn đề này xin không bàn thêm, quay lại với PVA, ngoài đạo đức nghề nghiệp phải tuân thủ. Anh ta còn phải tuân thủ những quy tắc riêng của từng hãng thông tấn, từng tờ báo về hình ảnh. Các chi tiết có thể khác nhau những nguyên tắc chung vẫn phải là:

- Những bức ảnh luôn luôn thuật lại sự thật.
- Những bức ảnh không bao giờ được phép thay đổi hay chế tác theo bất kỳ cách nào.
- Ngoài ra, một số hãng còn quy định chỉ cho phép tẩy các vết xước, bụi, crop... Các biện pháp chỉnh sửa hình ảnh, "gây cảm giác" khác nhau cho người xem trước và sau khi chỉnh sửa đều không được phép.

3. Phóng viên ảnh anh là ai?


Cũng giống như khái niệm ăn ảnh và không ăn ảnh trong chụp chân dung. Chỉ có khác ở đây là khái niệm dành cho người chụp chứ không phải dành cho người "bị" chụp. Có nghĩa đúng ra phải là "ăn phóng viên ảnh" và ngược lại.

Điều đó cũng có nghĩa là không phải ai cũng hợp với nghề này, một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp toàn chụp ảnh nghệ thuật nhưng chưa chắc đã chụp giỏi được ABC, bởi giá trị thông tin đòi hỏi của ABC khác với ảnh nghệ thuật. Vậy điều gì đã được coi là tố chất của "Phóng viên viết bằng máy ảnh"?

3.1. Nhạy cảm và thông cảm:

Tri thức có thể học, kỹ năng có thể rèn nhưng sự nhạy cảm, năng khiếu "phát hiện" nhưng điều mà nhiều người không thấy và tìm cách thểhiện quả hình ảnh độc đáo, thích hợp thì lại không phải ai cũng có và cũng giỏi được.

Và cũng không phải "đối tượng phản ánh" nào ai đã giỏi là giỏi tuốt, phóng viên ảnh chúng ta thường biết ở Việt nam là thời sự và thể thao... PVA phải nhạy cảm và thông cảm vì anh ta sẽ gặp nhiều tình huống khác nhau, nhiều tình huống bất ngờ, có thể bạn sẽ chụp những gì đau buồn xảy đến với "chủ đề" như tai nạn, chiến tranh, thảm hoạ tự nhiên, bênh tật... Bạn không thể chăm chăm chụp ảnh với khuân mặt lạnh tanh vô cảm hay trang phục, đầu tóc "đầu gấu" mất thiện cảm cho được, mà phải có thời gian thiết lập quan hệ và sự tin cậy. Michel DuCille phóng viên Washington Post cho rằng bất kỳ lối tiếp cận nào của phóng viên ảnh cũng phải "đối xử trân trọng với chủ đề và vứt bỏ mọi định kiến có sẵn. Phải có khả năng lường trước được bản chất con người và biết có mặt đúng nơi đúng lúc".

3.2. Dũng cảm, kiên nhẫn và không ngại gian khó:

Nếu không chúng ta là sao có nhưng ảnh trong những khúc cua nguy hiểm trong đua xe, những tình huống gay cấn, cảm động trong chiến tranh, những vụ hoả hoạn, những tình huống giải cứu con tin nghẹt thở, nhưng bức cận cảnh với bệnh nhân HIV, giao lưu và làm quen với những con nghiện, những vụ thảm hoạ thiên nhiên chưa từng có... và không thể kể hết những tình huống nguy hiểm.

Nhiều bức ảnh giá trị nó nằm trước hay sau sự kiện, chínhvì vậy kiễn nhẫn chờ đợi hay chịu khó quan sát cũng là điều kiện để không bỏ lỡ nhưng khoảnh khắc không có lần 2.

Ví như nhà báo Eric Draper đang làm nhiệm vụ ở Macedonia, chụp ảnh dân tị nạn Anbani ở cuộc chiến Kosovo, anh cố nán lại thật lâu trong lúc bị cảnh sát đuổi và đó cũng là thời điểm anh chụp được bức Người bố khóc trên đầu đứa con sau cửa kính ôtô chở người tỵ nạn. Nói như Schiappa "Cảnh sát ra lệnh cho anh phải dời vị trí đó, bạn tuân theo, nhưng hãy dời đến vị trí khác và tiếp tục chụp đến khi nào họ đuổi bạn lần nữa"".

Và để kết thúc phần này tôi xin nhắc lại đại ý câu nói nổi tiếng của một phóng viên nổi tiếng, Ông có nói rằng: "Nếu bức ảnh của bạn chưa đẹp thì có nghĩa là bạn chưa đến gần". Và ông đã hy sinh trong chiến tranh khi tiếp cận gần "mục tiêu" hơn, tên của ông là CAPA.

3.3. Tư duy và óc hiếu kỳ:

Tư duy ở đây được hiểu là tư duy hình ảnh, nó sẽ được hỗ trợ nếu định trước những chủ đề cụ thể và có cơ sở vững chắc. Nó đòi hỏi vốn kiến thức và tầm hiểu biết nhất định. Như bức ảnh nổi tiếng chụp tên đọc tài Pol Pot của David Longstreath năm 1998. Tác giả bức ảnh cho rằng: "Đây là tên độc tài cuối cùng của thế kỷ 20. Tôi không thể nói không trước cơ hội này và không thực hiện được thì tôi không quay lui." Bạn phải có tầm nhìn lịch sử để hiểu được tầm quan trọng của sự kiện này.

Nhưng phải nói một thực tế không chỉ riêng ở Việt nam (Việt nam thì hiển nhiên rồi? ) mà ở tầm quốc tế là hướng tư duy của PVA bị ảnh hưởng bởi các cuộc thi ảnh báo chí và những cuốn sách giới thiệu các bức ảnh nổi tiếng. Nó đã làm cho nhiều người cầm máy dễ dàng đi theo con đường mà những người khác đã vạch ra cho mình...

Còn óc hiếu kỳ hiển nhiên luôn nằm trong đầu mỗi PVA, anh không thể vô tư "bỏ quên đời" như một nhà thơ trong những lúc "bay bổng" được. Thật sai lầm nếu tiếp cận những cảnh tượng mới PVA lại tự hỏi mình "Chuyện này có gì mà hấp dẫn vậy?". Chính óc hiếu kỳ luôn luôn thôi thúc mỗi PVA theo đuổi thông tin.

4. Chụp ảnh báo chí có cần phong cách riêng?


Trước khi đi tiếp phần này tôi muốn để mở thành cho mỗi thành viên tự cho ý kiến của mình. Bởi sau đó mỗi người sẽ cảm nhận nhiều điều mà tôi cho là sẽ hay

Ca sĩ, hoạ sĩ và cả những nhà nhiếp ảnh chụp ảnh Nghệ thuật... nhiều người nổi tiếng nhờ xây dựng cho mình một phong cách riêng. Còn trong chụp ảnh báo chí thì sao: Có cần không? Và nếu có thì nó có ảnh hưởng đến nghề nghiệp không...?

5. Ảnh báo chí Việt Nam: Mặt bằng chung còn thấp


Ảnh báo chí VN gần đây thấy rõ sự chuyển biến về chất lượng, nhưng nhìn chung những bức ảnh xuất sắc quá ít trên mặt bằng chung còn yếu. Ảnh báo chí VN luôn thất bại trong Cuộc thi ảnh báo chí thế giới World Press Photo hàng năm.

Nghệ sĩ chụp ảnh báo chí 

Nhìn vào danh sách những tác giả VN ghi cuối cuốn sách ảnh (Year Book) hàng năm của cuộc thi WPP mới thấy một sự lạ: Đến gần 90% người dự thi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, trong khi các tác giả nước ngoài đều là phóng viên ảnh từ các hãng thông tấn, các tờ báo, tạp chí lớn trên thế giới.

Nghệ sĩ nhiếp ảnh ở ta thì thường tham dự các cuộc thi salon của FIAP (Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế) và quen với việc can thiệp, xử lý vào ảnh. Vì tính chất FIAP là nghiệp dư, là chơi nên càng thi thố thủ pháp, càng dụng công sáng tạo thì có khi bức ảnh càng được đánh giá cao. Trong khi với các phóng viên ảnh, việc thể hiện quan điểm cá nhân còn gây tranh cãi.

Hal Buell - nguyên Trưởng ban ảnh của Hãng Thông tấn AP (Mỹ) - từng nói: "Nhà báo không phải và không nên trở thành nghệ sĩ bởi vì nghệ sĩ thường có quan điểm hay ít ra cũng cần có quan điểm. Còn nhà báo chỉ tường thuật lại những gì đã xảy ra".

Phóng viên ảnh thì sao?

Nếu nói ở ta không có sự kiện tầm cỡ để phóng viên tác nghiệp là sai! Phóng viên VN cũng không thiếu sự nhiệt tình trong nghề, nhưng kỹ năng tác nghiệp còn những hạn chế, chế độ bảo hiểm vào vùng nguy hiểm chưa có và nhuận ảnh thường chưa xứng đáng.

Nhiều phóng viên ảnh trong toà soạn vẫn mặc cảm so với phóng viên viết, hầu hết các báo chưa có biên tập ảnh riêng, và khả năng chọn ảnh của biên tập hay bất đồng với phóng viên. Một thực tế khác là nhiều phóng viên ảnh không chú ý đúng mức đến phần ghi chú cho ảnh, nên chú thích không đầy đủ...

Dạng phóng sự ảnh, ký sự ảnh đúng tính chất của nó- rất ít phóng viên ảnh VN làm tốt- mà hầu hết chỉ là những ảnh đơn lẻ ghép lại mà thiếu một móc xích kết nối chặt chẽ. Đó là chưa kể một số phóng viên ảnh vẫn quen dàn dựng, sắp đặt vì thiếu tính kiên nhẫn hoặc chậm chân.

Về điểm này, Richard Voger- phóng viên một hãng thông tấn quốc tế tại VN - nói: "Tôi đã đi cùng và nhiều lần chứng kiến các phóng viên Châu Á dàn dựng hiện trường. Điều đó là không thể. Nếu bạn đến muộn bạn phải chấp nhận thất bại".

Sự nhầm lẫn về ảnh báo chí

Không ít người cho rằng: ảnh báo chí không cần tính nghệ thuật, quan trọng nhất là khoảnh khắc diễn ra sự kiện nóng và phóng viên ảnh bất chấp hiểm nguy ghi lại sự kiện đó thì làm sao còn có điều kiện chú ý tới tính mỹ thuật trong ảnh. Điều đó chỉ đúng một phần.

Tất nhiên, không phải ai cũng làm được như nhà nhiếp ảnh lừng danh James Natchwey (Mỹ) với những bức ảnh vừa có chất sống động của sự kiện, vừa giàu chất tạo hình.

Thực tế các tác phẩm đoạt giải WPP 2005 vừa qua là minh chứng rõ nét về sự kết hợp nhuần nhuyễn báo chí và nghệ thuật, tiêu biểu ở các thể loại ảnh thể thao, nghệ thuật...

Chúng ta hay nhắc đến "đào tạo"- khâu đầu vào để chỉ ra nguyên nhân chính của sự thua kém trong ảnh báo chí ở ta. Nhưng thực tế là còn nhiều nguyên nhân khác như đã nêu trên. Vì thế việc phóng viên Việt Thanh (Báo VN News) đoạt 1 trong 8 giải nhất ảnh báo chí do hai tờ báo Asia News Network và China Daily (Châu Á) tổ chức là một tin vui, nhưng cũng vì thế mà có người vội tung hô quá mức về một sự "đối trọng" với World Press Photo là chuyện buồn cười. Ngộ nhận về mình cũng là một điểm rất nên tránh.

Bàn luận 

Nhân tiện ta bàn luôn về "Ảnh báo chí" nhỉ

Chả là Người Thăng Long có được khá nhiều dịp tham gia cùng và chứng kiến anh em phóng viên của TTXVN tác nghiệp. Đã gọi là "Thông tấn xã" thì chắc chắn là chuyên về tin tức rồi thế nhưng lúc xem lại ảnh của anh em đang trên báo mới thấy là người nhà mình thiếu được đào tạo nghiệp vụ thật. Có mấy vấn đề nổi cộm:

1. Nội dung: 

Ảnh phóng sự rất cần nội dung và khả năng chuyển tải thông tin. Ảnh phóng sự của TTXVN còn rất yếu về khoản này, nó gần với ảnh "ghi chép" hơn là "báo chí". Có lẽ một trong những nguyên nhân chính là thiếu đào tạo chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Để ý thì thấy ngay là phóng viên nhà mình đi "cover" hội nghị thường chỉ đơn giản xin "Press release", copy bài phát biểu...mà không thật sự tìm hiểu nội dung của nó. Chính vì thế mà họ thiếu khả năng tổng quát để "phóng sự" lại sự kiện bằng ảnh. Ảnh chụp rất nhiều đến mức không cần thiết.

2. Kỹ thuật thể hiện: 

Đa phần anh em phóng viên nhà mình bị hạn chế bởi phương tiện kỹ thuật. Chụp ảnh phóng sự bằng dCam và BCam là phổ biến. Thêm vào đó là khả năng thao tác kỹ thuật vẫn còn hạn hẹp nên gặp rất nhiều trường hợp phóng viên nhà mình đứng xa hơn 10m và chụp ảnh với flash của BCam! Đấy là chưa nói tới cách thức thao tác khi chụp ảnh, di chuyển...để tránh trở thành vật cản không cần thiết cho hội nghị và truyền hình.

Nói tới ảnh báo chí không có nghĩa là đặt yếu tố "nghệ thuật" sang một bên. Ảnh báo chí nhất thiết phải đẹp về kỹ thuật và mang sức mạnh của nội dung. Giá trị thời sự là quan trọng nhất với ảnh báo chí. Tiếp theo đó là hiệu quả của ảnh báo chí đem lại trong xã hội thông tin. Xét về một khía cạnh nào đó ảnh báo chí gần với những ảnh nghệ thuật của khoảnh khắc. Tuy nhiên trong ảnh báo chí người ta không "xét nét" một cách quá đáng về "ý tưởng sáng tạo" mà quan tâm nhiều về kỹ năng thể hiện.

Một vài suy nghĩ cá nhân trao đổi cùng các bạn. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi 
Nguồn tin: Sưu tầm

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN: Các yếu tố hình họa của hình ảnh (P10)

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN: Các yếu tố hình họa của hình ảnh (P10)

NHIẾP ẢNH SỐ CĂN BẢN: Các yếu tố hình họa của hình ảnh (P10)
Ảnh đạt và ảnh tốt Hai từ ngữ này không giống nhau. - Ảnh đạt là một bức ảnh rõ nét, nhìn thấy rõ. Tất cả chỉ là như vậy. bất kỳ ai, dùng một chiếc máy ảnh loại phổ biến bán ngoài thị trường, đều có thể chụp đạt tất cả mọi kiểu ảnh. - Còn một bức ảnh tốt thì lại khác. Ta chú ý đến một bức ảnh tốt vì nó liên quan đến ta: nó đã chộp được giây phút quan trọng, chộp được một vẻ mặt thoáng qua, một cử chỉ có ý nghĩa. Hoặc là nó thể hiện bằng một vẻ dễ nhìn hoặc khác thường, một con người, một cảnh vật, một hình thái của thiên nhiên. Hoặc nó gợi lên những mối liên quan tinh vi hình như được thiết lập giữa những yếu tố trong thiên nhiên hoặc những cảnh huống trong cuộc đời, hay cuối cùng nó đem đến cho ta những tin tức mới về một vũ trụ mà chúng ta không biết rõ. Chỉ ra, thông báo, giảng dạy, gợi lên; đó là một vài trong số nhiều tính chất của một bức ảnh tốt.

Phần 1: Mục lục

 

Phần 2: Overture 

 

Phần 3: Máy ảnh số và nhiếp ảnh số 


3.1Chọn máy ảnh
3.2 Có những gì trong một dCam?
3.3 Thẻ nhớ: không còn bí ẩn
3.4 Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
3.5 Xsync, Hsync, Exposure time, Flash photography
3.6 Kính lọc 

Phần 4: Kỹ thuật chụp ảnh 

4.1 Kỹ thuật căn bản
4.2 Nguyên tắc chụp ảnh
4.3 Độ nét sâu của trường ảnh
4.4 Tốc độ chụp ảnh
4.5 Các chế độ đo sáng
4.6 Các hiệu chỉnh khác 

Phần 5: Ngôn ngữ nhiếp ảnh 

5.1 Less is more
5.2 Tương phản trong Nhiếp ảnh
5.3 Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
5.4 Bố cục ảnh
5.5 Yếu tố phụ trong bố cục
5.6 Đường nét trong bố cục
5.7 Bố cục và sáng tạo
5.8 Các yếu tố hình họa của hình ảnh
5.9 Những quy tắc, định luật Nhiếp ảnh
5.10 Chụp ảnh chân dung
5.11 Ánh sáng trong ảnh chân dung
5.12 Chụp ảnh phong cảnh
5.13 Chụp close up và ảnh hoa
5.14 Chụp ảnh báo chí 

Phần 6: Xử lý ảnh 

6.1 Hiểu thêm về các thông số của ảnh
6.2 RAW vs JPEG
6.3 Kỹ thuật chuyển ảnh mầu sang đen trắng
6.4 Kỹ thuật xử lý ảnh Đen Trắng trong buồng tối
6.5 Tối ưu ảnh trước khi up lên site
6.6 Làm border ảnh bằng Photoshop và vấn đề giữ exif
6.7 Khắc phục Out nét
6.8 Cứu ảnh bị xóa trên thẻ nhớ
6.9 In ảnh tại Labs 

Phần 7: Mẹo vặt và hỏi đáp 

7.1 Kinh nghiệm chụp cho người mới bắt đầu
7.2 Tạo hiệu ứng sao cho đèn đêm mà không cần kính lọc
7.3 Hiệu ứng zoom
7.4 Mẹo đo sáng thay thế
7.5 Bồi đèn trong chụp tốc độ chậm
7.6 Kính lọc màu cho đèn và ống kính:
7.7 Nghệ thuật xem ảnh
7.8 Tăng giảm bù trừ sáng (EV+/-)
7.9 Bù trừ sáng (EV)
7.10 Kinh nghiệm đo sáng
7.11 Đặt tên cho ảnh
7.12 Bóng đổ - bóng ngả - bóng đối xứng - bóng khối
7.13 Tone màu?
7.14 Chế độ chụp
7.15 Lấy nét - chế độ màu
7.16 AEB
7.17 Chụp cảnh hoàng hôn
7.18 Cỡ ảnh, kỹ thuật chụp đêm
7.19 Chụp ảnh lưu niệm
7.20 Chụp ảnh khi trời mưa
7.21 Chụp ảnh khi trời gió
7.22 Mưa đêm và những tia chớp
7.23 Chụp ảnh trong sương mù
7.24 Chụp ảnh khi tuyết rơi
7.25 Chụp ảnh biển
7.26 Chụp ảnh chân dung
7.27 Chụp pháo hoa
7.28 Bảy lời khuyên cho chụp ảnh nội thất
7.29 Căn chỉnh màn hình máy tính của bạn
7.30 So sánh Canon và Nikon
7.31 Noise - vỡ hạt ảnh
7.32 Xử lý bụi bám trên sensor
7.33 Khẩu độ sáng
7.34 Nghệ thuật và sự dung tục
7.35 Hệ số nhân tiêu cự
7.36 Ảnh đen trắng trong thời đại số
7.37 Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh?

Phần cuối: Thông tin về sách

 

Phần 5: Ngôn ngữ nhiếp ảnh 

5.1 Less is more
5.2 Tương phản trong Nhiếp ảnh
5.3 Quy tắc bố cục tranh phong cảnh
5.4 Bố cục ảnh
5.5 Yếu tố phụ trong bố cục
5.6 Đường nét trong bố cục
5.7 Bố cục và sáng tạo 

5.8 Các yếu tố hình họa của hình ảnh 


rong những chương trên đây, chúng tôi mong rằng đã không để lộ sở thích riêng của mình đối với cỡ máy ảnh này hay cỡ ảnh kia, đối với nhãn hiệu máy ảnh này hay nhã hiệu máy ảnh kia. Thực vậy, chúng tôi muốn chứng tỏ rằng, mặc dù máy ảnh có nhiều khả năng và nhiều khâu tự động, song nó chỉ là một cái máy mà ta phải học cách sử dụng nó, một cái máy vô tri vô giác, tự nó không có khả năng nhìn và chọn lựa.

Yếu tố có ý nghĩa trong một bức ảnh, cố nhiên không phải là chiếc máy ảnh đã chụp ra bức ảnh đó mà là nhà nhiếp ảnh đã chụp nó. Nhà nhiếp ảnh giỏi không phải là người có chiếc máy ảnh tốt nhất, đắt tiền nhất, mà là người chụp được những bức ảnh tốt nhất! ta có thể lấy một ví dụ:

Một trong những nhà nhiếp ảnh nổi tiếng một cách xứng đáng là Henri Cartier-Bresson. Như chính ông thừa nhận, nhà nhiếp ảnh Pháp này thường sử dụng một chiếc Leica "cổ lỗ sĩ", với ống kính tiêu cự trung bình, chụp phim đen trắng, và thường chụp với tốc độ 1/125 giây! Chúng ta có thể tin rằng Henri Cartier-Bresson rất có khả năng sử dụng một chiếc máy rất phức tạp hoặc trái lại rất đơn giản mà vẫn có được những bức ảnh rất tốt...

...Yếu tố tạo nên giá trị của những hình ảnh của nhà nghệ sĩ này - cũng như của những nhà nhiếp ảnh lớn khác - là một điều khó định nghĩa. Nghệ thuật bản thân nó không thể viết ra thành công thức. Ở người nghệ sĩ, việc thể hiện là tự phát và thuộc về bản năng, nhiều khi sử dụng đến tình cảm nhiều hơn là đến tri thức. Vì vậy, rất khó- nếu không phải là không thể-biết ngay trước được tại sao và vì sao hình ảnh này lại có tính chất nghệ thuật còn hình ảnh kia thì không...

Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể rút ra một số nhận xét: 

Ảnh đạt và ảnh tốt 

Hai từ ngữ này không giống nhau.

- Ảnh đạt là một bức ảnh rõ nét, nhìn thấy rõ. Tất cả chỉ là như vậy. bất kỳ ai, dùng một chiếc máy ảnh loại phổ biến bán ngoài thị trường, đều có thể chụp đạt tất cả mọi kiểu ảnh.

- Còn một bức ảnh tốt thì lại khác. Ta chú ý đến một bức ảnh tốt vì nó liên quan đến ta: nó đã chộp được giây phút quan trọng, chộp được một vẻ mặt thoáng qua, một cử chỉ có ý nghĩa. Hoặc là nó thể hiện bằng một vẻ dễ nhìn hoặc khác thường, một con người, một cảnh vật, một hình thái của thiên nhiên. Hoặc nó gợi lên những mối liên quan tinh vi hình như được thiết lập giữa những yếu tố trong thiên nhiên hoặc những cảnh huống trong cuộc đời, hay cuối cùng nó đem đến cho ta những tin tức mới về một vũ trụ mà chúng ta không biết rõ. Chỉ ra, thông báo, giảng dạy, gợi lên; đó là một vài trong số nhiều tính chất của một bức ảnh tốt.

1. Đối tượng và cách đề cập đến đối tượng 

Trong nhiếp ảnh, tính chất của đối tượng hầu như không có ý nghĩa gì quan trọng. Một cảnh vật hết sức tầm thường, một khuôn mặt của một người khách qua đường, một con vật, một thân cây, thậm chí một viên sỏi nữa, mang trong lòng nó nhiều khả năng chụp được những bức ảnh tốt chẳng kém gì những đối tượng thoạt nhìn chúng ta có thể cho là "ăn ảnh" hơn (những người phụ nữ xinh đẹp, những chú mèo con, thiên nga bơi trên hồ, cảnh hoàng hôn, v.v...). Bằng chứng không thiếu: những nhà nhiếp ảnh lớn như Cartier-Bresson, Denis Brihat, Jean Dieuzaide, và nhiều người khác nữa, đều có thể sáng tạo được những hình ảnh kỳ diệu từ những đề tài bản thân chúng có vẻ rất tầm thường-một khu chợ ở Paris, một chiếc lá rơi, ánh nước trên mặt hồ... Vậy thì, đối tượng chụp không là cái gì cả, hoặc là chẳng có giá trị bao nhiêu. Toàn bộ giá trị là ở cách ta nhìn đối tượng đó, cách chụp đối tượng đó...

Trước hết hãy học cách nhìn! Cái có thể làm cho một bức ảnh có giá trị trước hết là nội dung gợi cảm của nó, sức mạnh biểu hiện của nó. Xu hướng rất thông thường ở người mới cầm máy là muốn đưa vào trong khuông hình càng nhiều thứ càng tốt. Người mới vào nghề chụp đó muốn đưa vào trong một kiểu ảnh toàn bộ gia đình đứng trước toàn bộ khung cảnh. Đó đúng là cách thể hiện một bức ảnh vô giá trị. Kích thước nhỏ bé, tủn mủn của mỗi đối tượng, chi tiết quá nhiều khiến cho con mắt người xem bị lạc, khiến cho hình ảnh trở nên rối và có vẻ như ta đã được thấy rất nhiều lần ở đâu rồi.

Trước một đối tượng như vậy, ta phải biết cách chọn: Người hay cảnh? Nếu chọn người, thì ta chụp gần lại, khuôn hình đầy hơn để có thể nhận ra đường nét và cảm xúc trên nét mặt. Cảnh vật sẽ đóng vai trò nền, đằng sau những bức "chân dung". Nếu ta chọn cảnh, thì phải cố gắng làm sao thể hiện được những đường nét tế nhị và giàu giá trị biểu hiện của phong cảnh, làm phân biệt các lớp khác nhau trong ảnh, làm nổi lên vẻ đẹp của ánh sáng ngược, v.v... Nếu như có người trong ảnh thì người chỉ là những cái chấm nhỏ xíu ở đằng xa, đóng vai trò "điểm đối về thị giác": con người trước thiên nhiên.

Biết chọn lựa... là một cách khác để bày tỏ cùng một ý nghĩ, là vấn đề về sự thống nhất của đối tượng chụp. Trong nhiếp ảnh cũng như trong mọi phương tiện biểu hiện khác, ta không được "đề cập" đến nhiều chủ đề trong một hình ảnh. Điều đó không có nghĩa là nhà nhiếp ảnh chỉ được chụp một người, một vật hoặc một hành động duy nhất mà thôi. Mà là phải tôn trọng một sự phân chia thứ bậc nào đó giữa các yếu tố tạo nên ảnh: Các yếu tố phụ có vai trò làm nổi bật yếu tố chính, chứ không được làm phân tán con mắt khỏi đối tượng chính. Tất cả các yếu tố trong bức ảnh phải tham dự vào cùng một cảnh tượng hoặc cùng một hành động.

2. Giây phút chụp 

Khi chụp một con người, một sinh vật hoặc một vật động, đặc điểm cơ bản là giây phút chụp mà Cartier-Bresson gọi là giây phút quyết định.

Động tác của mọi sinh vật đều qua một giây phút gọi là điểm tột đỉnh, điển hình cho toàn bộ hành động diễn ra trước và sau điểm tột đỉnh đó. Ví dụ, ta phải chụp người nhảy cao đúng vào lúc người ấy vượt qua xà ngang...Đối với những động tác phức tạp, của nhiều người cũng vậy. Ví dụ, chụp hàng nghìn bộ mặt trên sân vận động đều cùng hướng về một phía, hàng trăm cánh tay chĩa về một nơi. Chụp quá sớm hoặc quá muộn một chút, hình ảnh sẽ mất hầu như hết ý nghĩa của nó.

Không phải chỉ ở chụp phóng sự hoặc chụp chân dung giây phút chụp mới quan trọng, mà cả chụp phong cảnh cũng vậy. Giây phút tốt nhất khi chụp một phong cảnh là khi mặt trời rọi tia nắng qua các dải mây, làm mọi vật tràn ngập một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, làm đồi núi và cánh đồng nổi lên những hình dáng đặc biệt của chúng. Chọn giây phút bấm máy không phải chỉ là vấn đề may rủi, mà là một vấn đề kiên nhẫn và phương pháp.



Nụ hôn- tác giả: Robert Doisneau

Sự thành công của một bức ảnh nhiều khi là do người chụp dự kiến được trước sự kiện. Đó như thể là một "giác quan thứ 6" ở các nhà chụp chân dung và phóng sự lớn. Giây phút ấy không thể do ta tạo ra. Những câu như: "Cẩn thận! Đứng yên nhé! Chụp đây này..." chỉ làm xuất hiện trên đối tượng chụp một nụ cười cứng đờ. Cuộc sống không dừng lại, nhà nhiếp ảnh phải biết chộp lấy cuộc sống đúng lúc.

3. Khuôn hình 

Khuôn hình là chọn một cái khuônchứa đựng đối tượng trong đó. Việc khuôn hình hầu hết được tiến hành trong khung ngắm, trước khi bấm máy. Nói rằng cứ chụp đi rồi sau đó "khuôn hình lại" khi phóng ảnh là sai. Nếu ta chụp phim dương để chiếu lên màn ảnh thì không thể nói đến chuyện khuôn hình lại một mẩu phim 24x36mm. Còn khuôn hình khi phóng ảnh từ phim âm ra, nghười chụp nghiệp dư hiểu nghề hoặc nghười chuyên nghiệp đều biết rõ rằng bề mặt của một miếng phim không phải bao giờ cũng thừa thãi cho việc đặt đối tượng vào trong đó để rồi ta có thể cắt xén nó đi. Vả lại, một cỡ ảnh nhất định nếu phóng từ một diện tích trên phim càng nhỏ bao nhiêu thì chất lượng hình ảnh sẽ giảm đi bấy nhiêu, về mặt nổi hạt và độ sắc nét. Ngoài ra, ngày nay việc in phóng ảnh mhiều khi thực hiện bằng máy in tự động, không thể khuôn hình lại "một cách khôn ngoan được" (Lưu ý: tài liệu này được biên soạn từ những năm 70 của thế kỷ trước, vì vậy nó có thể không hoàn toàn đúng với ngày nay vì ta có thể scan phim âm bản rồi chỉnh sửa trên PC trước khi in, song ý nghĩa cơ bản của việc khuôn hình thì không sai- NH).




Trăng lên-tác giả: Ansel Adams

Do vậy, đối với một nhà nhiếp ảnh giỏi thì, khuôn hình tức là phải đặt đối tượng một cách thích đáng vào trong khuôn ảnh ngay khi chụp. Bất luận đối tượng chính có kích thước như thế nào, ta có thể có nhiều cách khuôn hình: từ việc khuôn hình toàn cảnh đến cận cảnh và đặc tả. Thực vậy, trong nhiếp ảnh cũng như trong điện ảnh, ta có thể nói đến các lớp cảnh của một bức ảnh.

- Ảnh toàn cảnh là ảnh chụp đối tượng ở giữa môi trường xung quanh. Ví dụ, toà lâu đài nằm giữa khung cảnh của nó, toàn cảnh một hải cảngv.v...

- Ảnh trung cảnh là bức ảnh được khuông hình sát hơn. Nó nhấn mạnh đến chủ đề chính, và không để cho môi trường xung quanh chiếm một vị trí lớn.

- Ảnh cận cảnh là ảnh chứa đựng phần chủ yếu của đối tượng không đưa vào ảnh một cách đáng kể môi trường xung quanh. Ví dụ: ảnh chụp em bé nằm trong nôi.

- Ảnh đặc tả là ảnh chỉ chụp một phần có ý nghĩa các đối tượng: khuôn mặt, bàn tay, cánh hoa v.v... Nó nhấn mạnh đến vẻ biểu hiện, kết cấu bề mặt, chi tiết của đối tượng. Chụp cận cảnh làm cho hình ảnh có một sức mạnh biểu hiện đặc biệt, nhiều khi độc lập đối với bản thân đối tượng. Thể loại chụp đặc tả được các nhà nhiếp ảnh hiện đại rất ưa thích, bởi vì nó buộc ta phải xem xét một khía cạnh của sự vật mà con mắt của ta ít phân tích. Rõ ràng là một vết nứt trên một bức tường khi chụp đặc tả, không còn là một bức tường hoặc một vết nứt mà là một đường nét trừu tượng gợi cho ta một cái gì khác hẳn.




Tetons and The Snake Rivers - Adams Ansel

Khi có thể được, ta nên chụp cùng một đối tượng hai ba kiểu nhưng khuôn hình một cách khác nhau.

Ảnh toàn cảnh xác định khung cảnh chung. Ảnh trung cảnh cho biết rõ thêm về hình dáng hoặc chức năng. Ảnh đặc tả bộc lộ cho thấy cơ cấu bên trong. Thể loại này rất cần thiết khi ta muốn chụp một đối tượng thành các trường đoạn để giới thiệu trong một buổi chiếu phim đèn chiếu có thuyết minh...

Chúng ta đã biết rằng muốn chuyển từ toàn cảnh sang đặc tả, có thể dùng hai phương pháp:

- Đến gần đối tượng;
- Dùng ống kính có tiêu cự dài hơn mà không phải thay đổi điểm nhìn (vị trí đặt máy ảnh).

Dùng phương pháp thứ nhất hay thứ hai sẽ cho ta những kết quả rất khác nhau.

4. Điểm nhìn 

Điểm nhìn là vị trí mắt người quan sát hoặc vị trí của ống kính máy ảnh: khi bấm máy thì mắt người quan sát và ống kính máy ảnh nhập làm một.

Điểm nhìn là một khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh, bởi vì riêng mình nó quyết định phối cảnh của đối tượng, tức là "cảnh tượng của các yếu tố khác nhau trong bức tranh như khi ta nhìn bức tranh ấy khi lùi dần ra xa". Nếu như không di chuyển máy ảnh, ta thay ống kính thường bằng một ống kính tiêu cự dài, ta thấy trong khung ngắm phản quang mà ta đã thay đổi độ lớn của hình ảnh và thị trường thu được vào trong ống kính. Tuy nhiên, ta không thay đổi gì hết quan hệ giữa các diện khác nhau của đối tượng, lẫn sự hội tụ tự nhiên của các đường song song, tức là ta không thay đổi phối cảnh.

Trái lại, khi ta di chuyển máy về phía trước hay phía sau, hoặc sang bên trái hay sang bên phải, đưa lên cao hay hạ xuống thấp, ta sẽ thay đổi quan hệ giữa các lớp của đối tượng từ tiền cảnh đến hậu cảnh.

+ Phối cảnh chỉ phụ thuộc vào điểm nhìn.

Chúng ta có thể nêu lên một số nhận xét khái quát, rất dễ hiểu, rút ra từ qui luật phối cảnh.

- Điểm nhìn thấp (hoặc rất thấp) sẽ làm cho các lớp sít lại gần nhau, làm cho các vật nhích lại gần nhau, như thể chồng lên nhau. Nó làm tôn chiều cao của những vật thể ở tiền cảnh, nổi bật lên bối cảnh hoặc lên nền trời. Nó hạ thấp đường chân trời.

- Điểm nhìn cao (hoặc rất cao) sẽ tách rời và thay đổi các lớp và hình như làm cho các đối tượng tách rời nhau; nó làm giảm chiều cao của các đối tượng nằm ở tiền cảnh, nó nâng cao đường chân trời.

- Điểm nhìn trung bình là điểm nhìn ở ngang tầm con mắt ta.

Vị trí của điểm nhìn xác định điểm biến của mọi đường nằm ngang của đối tượng song song với nhau. Tất cả những đường nằm ngang song song với trục quang (của con mắt hay của ống kính) đều hội tụ về một điểm duy nhất nằm trên đường chân trời, gọi là điểm biến chính.




Canyon: Broadway and Exchange Place. Tác giả: Berenice Abbott


Rất nhiều khi, việc dùng điểm nhìn cao hoặc thấp buộc ta phải nghiêng máy ảnh hoặc chúc xuống dưới hoặc chĩa lên trên. Khi ấy, ta phải nhớ rằng việc chúc máy đó tất yếu sẽ làm cho các đường thẳng đứng (nếu đối tượng có) hội tụ lại. Sự hội tụ của các đường thẳng đứng làm cho hình ảnh của một toà nhà trông như thể một đoạn của kim tự tháp vút lên trên. Hiện tượng đó có thể chủ ý muốn có hoặc có thể không chấp nhận được tuỳ theo mục đích của bức ảnh. Điều ta cần phải biết trong mọi trường hợp là:

- Nghiêng máy sẽ tự động làm cho các đường thẳng đứng trong ảnh bị hội tụ.
- Sự hội tụ đó có thể tránh được bằng cách dùng một số phụ tùng hoặc một số biện pháp đặc biêt.

+ Muốn cho các đường thẳng đứng của đối tượng song song với nhau trên ảnh, điều kiện cần và đủ là phim (với máy KTS chắc là bề mặt của sensor -NH) phải thật song song với đối tượng chụp.

Nhưng điểm nhìn lại thay đổi tuỳ theo khoảng cách từ đối tượng đến máy ảnh. Đối tượng càng xa (Chụp toàn cảnh) thì kích thước của nó có vẻ càng nhỏ; khi ta nhích lại gần đối tượng chính thì ta làm cho đối tượng ấy to lên trong ảnh. Nếu đối tượng đặt trước một hậu cảnh ở tận vô cực, khi nhích lại gần, ta sẽ làm cho làm cho tiền cảnh to lên mà không thay đổi một cách đáng kể kích thước của hậu cảnh.

Nói một cách tổng quát, độ lớn tương đối giữa các lớp cảnh khác nhau chỉ phu thuộc vào điểm nhìn mà thôi. Ta cho tiền cảnh có kích thước như thế nào cố nhiên là do ý đồ của ta. Điểm nhìn gần sẽ làm cho nổi bật chất liệu và chi tiết của tiền cảnh và làm cho hậu cảnh giữ vai trò phụ là khung cảnh. Trái lại, điểm nhìn xa làm cho các lớp cảnh trong hình ảnh ở vào tỷ lệ tương đối mà ta quen nhìn.

Đối tượng chính hoà hợp với các yếu tố khác của hình ảnh, và muốn cho nó nổi bật lên thực sự làm đối tượng "chính" thì ta phải đặt nó ở vào một vị trí đặc biệt trong hình. Đó là việc bố cục.

Điểm nhìn và thị trường thu vào trong ống kính

"Phối cảnh chỉ phụ thuộc vào điểm nhìn". Khi chúng tôi nhắc lại nguyên tắc cơ bản đó, chúng tôi đoán trước câu hỏi mà người ta có thể vặn lại. Người ta sẽ nói rằng khi ta dùng ống kính tê-lê thì ảnh chụp được khác hẳn với khi thay bằng ống kính góc rộng. Điều đó hoàn toàn đúng, và chúng tôi cũng không phủ nhận. Trước hết, ảnh của đối tượng được ống kính tê-lê khuếch đại lớn hơn so với ảnh tạo ra bằng ống kính thường hoặc ống kính góc rộng. Mặt khác, những lớp trong ảnh thu được bằng ống kính tê-lê có vẻ chồng cưỡi lên nhau và có độ lớn gần bằng nhau, trong khi ảnh thu được bằng ống kính góc rộng thì các lớp đó khác hẳn nhau.

Tuy nhiên, ta hãy nhìn kỹ hai bức ảnh chụp bằng hai ống kính đó ở cùng một điểm nhìn, ta sẽ thấy chúng có một phần giống nhau, nằm ở giữa bức ảnh chụp bằng ống kính góc rộng, phần có góc bao quát tương đương với góc mở của ống kính tê-lê. Phần đó có hình dáng giống hệt nhau ở cả hai bức ảnh, chỉ khác nhau về kích thước. Nếu ta lấy phần ở giữa đó trong bức ảnh chụp bằng ống kính góc rộng rồi đem phóng to ra và để cạnh bức ảnh chụp bằng ống kính tê-lê, ta thấy hai bức ảnh giống như in, trừ có điều bức ảnh phóng to thì hạt to hơn mà thôi...


Như vậy, cái vẻ "khác nhau" giữa bức ảnh thu được bằng ống kính tê-lê và bức ảnh thu được bằng ống kính góc rộng chỉ là do góc bao quát của hai ống kính không như nhau.

Trong thực tế, điều càng làm tăng sự khác nhau giữa ống kính tê-lê và ống kính góc rộng đối với con mắt ta là ở chỗ ống kính này làm cho hình ảnh to hơn to hơn ở ống kính kia rất nhiều, do đó khi dùng hai loại ống kính, ta bất giác chọn hai điểm nhìn rất khác nhau. Ví dụ, giữa ống kính tê-lê 135 mm và ống kính góc rộng 35 mm, thì bức ảnh thu được bằng ống kính thứ nhất gấp 4 lần hình ảnh thu được bằng ống kính thứ hai.

Khi chụp một đối tượng nào đó, muốn cho đối tượng đó có kích thước như nhau trong cùng một cỡ ảnh, khi dùng một ống kính tê-lê, ta tự nhiên lùi ra xa gấp 4 lần khoảng cách khi ta dùng ống kính góc rộng (đối với ví dụ trên - NH), vì vậy mà ta thu được hai hình ảnh rất khác nhau: Trong ảnh thu được bằng ống kính tê-lê, tiền cảnh không được khuếch đại bằng hậu cảnh như ảnh thu được với ống kính góc rộng.

Với ống kính góc rộng bao quát một thị trường 85 độ - rộng hơn rất nhiều thị trường của con mắt ta khi để yên - phối cảnh có vẻ bị thái quá ở rìa bức ảnh, nhất là khi tiêu cự quá ngắn đối với cỡ kiểu chụp. Trong thực tế, sự hội tụ của các đường song song nằm ngang đều hết sức giống nhau ở tất cả các ống kính, miễn là ta không thay đổi điểm nhìn.

Ta rút ra một số điều bổ ích như sau: một ống kính, bất kể tiêu cự như thế nào, đều có thể sử dụng nhằm hai mục đích khác nhau:

- Hoặc là để làm cho ảnh của đối tượng chính có một kích thước nhất định;

- Hoặc là để làm cho toàn bộ hình ảnh có một phối cảnh riêng, và có một quan hệ khác nhau giữa các lớp cảnh.

Xét theo điểm đó, ta thấy bao giờ ít nhất cũng có hai cách sử dụng khác nhau đối với mỗi ống kính:

- Ống kính tiêu cự dài trước hết dùng để làm to ra ảnh của đối tượng ở quá xa (chi tiết kiến trúc chẳng hạn), nhưng đồng thời nó cũng làm giảm tỷ lệ tương đối giữa các lớp cảnh.

- Ống kính góc rộng trước hết dùng để khuôn hình được đủ đối tượng khi ta không còn có chỗ lùi thêm nữa (chụp trong nhà hay ở một dãy phố hẹp), nhưng nó được dùng từ một điểm nhìn gần để làm tăng thêm hiệu quả hội tụ của các đường nằm ngang song song và làm tăng tỷ lệ tương đối giữa các lớp cảnh.

Một khái niệm khác nữa mà chúng ta có thể nhắc lại với nhau là khu vực nét sâu: với cùng một độ mở chế quang như nhau, ống kính tiêu cự dài sẽ cho một khu vực nét sâu ngắn hơn so với ống kính góc rộng...

Nếu như ta chỉ có một ống kính, ống kính tiêu cự trung bình, thì sao? Thì ta tự nhủ rằng Cartier-Bresson nhiều khi cũng ở vào hoàn cảnh như vậy, và hành động theo hoàn cảnh đó vậy.

+ Chọn góc nhìn là yếu tố cơ bản trong việc chụp ảnh



5. Đường nét và nhịp độ 

Người phương Đông, nhất là người Nhật Bản có biệt tài chỉ dùng vài đường nét đơn sơ mà gợi lên được bất cứ vật thể gì, bất cứ động tác gì không kém gì một bức tranh cổ điển. Nói như vậy có nghĩa đường nét thực sự là cái xương sống của hình ảnh.

Đối tượng có một số đường nét cơ bản, tức là không thể tránh được và không thể thiếu được: những đường nét bao bọc các vật thể, tách biệt các sắc độ và các sắc thái của các mầu, tách biệt phần tối với phần sáng. Đường chân trời tách biệt phần gì thuộc về đất và phần gì thuộc về trời, và dưới một hình thức tượng trưng, gợi lên cái vô cực bởi vì mọi đường nằm ngang của đối tượng đều qui tụ vào đấy.

Những đường khác, đường thẳng, đường cong hay đường gãy khúc, thẳng đứng, xiên hay nằm ngang, đường đơn giản hay phức tạp, bao giờ cũng có một vai trò quan trọng trong hình dáng của hình ảnh.

- Đường cong gợi lên sự mềm mại, dịu dàng, sự đầy đặn, sự uyển chuyển, sự hoà hợp, một cái gì thuộc về nữ giới.

- Đường thẳng gợi ngay cho ta sự mạnh mẽ, kiên quyết, cứng rắn.

- Đường gãy khúc biểu hiện sự mờ rối, hỗn độn.

Phương hướng của các đường cũng là một yếu tố cơ bản, nhất là khi nó được lặp đi lặp lại nhiều lần:

- Đường nằm ngang lặp đi lặp lại nhiều lần gợi cho ta vẻ yên tĩnh, nghỉ ngơi: mặt nước phẳng lặng của ao hồ, cánh đồng thẳng cánh cò bay.

- Đường thẳng đứng lặp đi lặp lại nhiều lần, như những chiếc cột trong nhà thờ, những thân cây trong một khu rừng gợi cho ta những cảm giác về cái vĩ đại lớn lao, sự cao quí tinh thần, v.v...

- Các đường chéo góc hội tụ vào nhau không thể gợi cho ta cái gì khác là sự xa vời, vô tận...

Nhà nhiếp ảnh chỉ cần quan sát sơ quacũng nhận thấy rõ vai trò tượng trưng của các đường nét. Ngoài ra, người chụp còn phải nắm được nhịp độ gây nên bởi sự lặp đi lặp lại của các đường. Như trong một bản nhạc, nhịp độ có thể đều đều, buồn tẻ, hoặc dồn dập, giật giọng: việc lặp đi lặp lại những yếu tố giống nhau tập hợp lại theo một cách nào đó, tạo ra một thứ "đời sống nội tâm" cho hình ảnh, gần như một "động tác vĩnh cửu"... như hàng dương liễu lẫn dần bên bờ sông.

Khi ta ngắm một bức ảnh tốt (trong nguyên văn-NH, theo bác Người Thăng Long phải dịch là bức ảnh đẹp), con mắt của ta được các đường nét hướng dẫn để phân tích hình ảnh, từ chủ đề chính là nơi con mắt bị giữ lại trước tiên, rồi lần lượt đến tất cả mọi điểm của bức ảnh. Đó là vai trò mà người chụp ảnh phải đem lại cho các đường nét trong bố cục.

6. Mảng tối và mảng sáng 

Ảnh chỉ là mặt chiếu một mặt phẳng hai chiều cả một thế giới ba chiều, một thế giới có chiều sâu, có nhiều tầng lớp khác nhau, từ mắt ta đến tận chân trời, đến vô cực.

Để cho từ mặt phẳng đó chúng ta có được cảm giác về hình khối, về chiều sâu, riêng phối cảnh hình học không đủ. Phối cảnh còn cần kèm theo sự "biến điệu" của các lớp cảnh khác nhau, về mặt tương phản và về mặt ánh sáng. trong một phong cảnh chẳng hạn, không khí đượm hơi nước và bụi làm cho các lớp cảnh ở xa bị chìm trong một làn sương mờ trên đó nổi bật lên những lớp cảnh ở gần hơn: hiệu ứng đó gọi là phối cảnh không trung.

Những bức ảnh chụp trên mặt trăng làm cho ta thấy lạ không phải chỉ do trên mặt trăng gồ ghề, tương phản, mà còn là vì những tảng đá ở xa nhất cũng nổi lên sắc nét trên bầu trời đen như những tảng đá ở gần. Trên mặt đất, hiện tượng các lớp cảnh càng xa càng mờ và nhạt dần là do hiệu ứng của việc chiếu sáng. Ánh sáng, tuỳ theo hướng chiếu của nó, làm cho các lớp cảnh của đối tượng nổi lên một cách khác nhau và làm cho hình dáng sắc hoặc dịu một cách khác nhau.

- Ánh sáng trực diện làm cho mọi hình khối đều chìm như nhau do đó hình ảnh bị dẹt.

- Trái lại ánh sáng chếch 45 độ so với đối tượng làm cho hình dáng và hình khối được nổi lên. Đó là loại ánh sáng cổ điển.

- Ánh sáng bên, đi lướt qua mặt tiền cảnh, làm nổi bật một cách hết sức mạnh mẽ cấu trúc và chất liệu của các vật thể: đá, gỗ, vải cho ta thấy cấu trúc đặc biệt của chúng.

- Ánh sáng ngược làm nổi vệt các vật thể nhưng chỉ thể hiện chúng thành những bóng đen.

Với một loại ánh sáng nhất định, chiếu sáng đối tượng theo một góc độ nào đó, ta có cả một loạt bóng tối rất có ý nghĩa. Bóng tối kéo dài trong bức tranh mùa đông hay cảnh trời chiều gợi lên một bầu không khí khác hẳn với bóng ngắn và gay gắt của mặt trời ban trưa. Bóng tối, những điểm sáng đối lập, giữ một vai trò nổi bật trong hình dáng của hình ảnh.

Sự tương phản của ánh sáng cũng quan trọng không kém gì hướng chiếu của nó. Chính sự tương phản này tạo nên bầu không khí của một phong cảnh, một tĩnh vật, một chân dung. Ta hãy so sánh ánh sáng dịu ở các nước miền cực bắc với ánh sáng gắt ở các nước nhiệt đới và ánh sáng trong sáng vào mùa xuân hay mùa thu ở các nước ôn đới.

Từng vật thể nằm trong khuôn hình, ở xa hay gần máy ảnh, ở vào những hướng khác nhau đối với hướng của ánh sáng, sẽ có một sắc độ xám khác nhau trên hình ảnh.

Vẻ đẹp của một bức ảnh đen-trắng là bằng cả một loạt các sắc độ xám khác nhau, từ trắng toát đến đen kịt, gợi lên cho ta những chất liệu khác nhau, những hình dáng khác nhau của các yếu tố tạo nên một thể hoàn chỉnh.

7. Màu sắc 

Một yếu tố của hình ảnh không được coi nhẹ trong lĩnh vực nhiếp ảnh ngày nay là màu sắc. Cố nhiên, mọi người có quyền thích ảnh đen-trắng, nhưng trong thập kỷ 70 này, đa số các bức ảnh chụp là ảnh màu!

Quá trình thực hành lâu năm ảnh màu đã dạy cho chúng ta, người chụp nghiệp dư lẫn nhà chuyên nghiệp một điều: màu sắc chỉ là một trong nhiều yếu tố của hình ảnh mà thôi. Riêng màu sắc không thôi, ít khi nó thu hút được sự chú ý của người xem. Nói cách khác là: một bức ảnh đen- trắng không có giá trị gì thì khó lòng mà có giá trị hơn nếu là ảnh màu. Thế nhưng, ta cần phải biết xem màu sắc có thể đem lại những gì cho hình ảnh.

Trước hết, màu sắc, riêng bản thân nó cho phép ta phân biệt được hai mảng của hình ảnh có thể sẽ bị lẫn vào với nhau trên ảnh đen trắng. Cụ thể là, ánh sáng trực diện là điều ngăn cấm khi chụp ảnh đen-trắng, lại có thể cho ta những bức ảnh màu khả quan nếu đối tượng chụp có nhiều màu sắc khác nhau.

Giá trị của một bức ảnh màu là ở chỗ nào? giá trị của nó là ở những yếu tố làm cho bức ảnh - bất kỳ là ảnh đen-trắng hay màu - trở thành một bức ảnh tốt (nguyên văn-NH), và hơn nữa, ở một sự hài hoà nào đó nối màu sắc này với màu sắc kia, ở những sắc thái tế nhị của cánh hoa giữa màu xanh xum xuê của lá cây, v.v... Do vậy, khi chụp ảnh màu, ngoài việc sử dụng đường nét, hình khối và ánh sáng ra, lại còn cần phải xét đến các sắc thái để tạo nên một tổng thể hoà hợp về màu.

Điều mà chúng ta quan tâm trước hết là giá trị mà màu sắc có thể đem lại cho hình ảnh khi màu đó không dữ dội. Những mảng tường rêu phong của một ngôi nhà cổ, một cành cây đượm sương đêm mà chúng ta nghĩ là có thể thể hiện được một cách trung thực lên ảnh đen-trắng, trong ảnh màu lại có những sắc thái kín đáo và một vẻ tinh tế mê hồn. Cũng vậy, một bông cẩm chướng đỏ sẽ nổi bật trên ngực áo màu xám như một tiếng kèn đồng vang vang. Đúng vậy, ta có thể nói đến sự hoà hợp và sự tương phản của các màu sắc, và đi sâu vào các lĩnh vực đó để thể hiện được những bức ảnh màu ngày càng đẹp. 

Toát yếu: Những yếu tố tạo nên hình ảnh


- Cách đề cập đến đối tượng
- Giây phút bấm máy
- Khuôn hình
- Góc nhìn và phối cảnh
- Thị trường bao quát
- Đường nét và nhịp độ
- Bóng tối và ánh sáng
- Màu sắc.

Không nhất thiết phải là một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp để có thể gặp được những điều lý thú và cũng rất khó khăn trong lĩnh vực nhiếp ảnh, chỉ cần bạn là một người ham mê thực hành nhiếp ảnh là sau một thời gian nhất định bạn sẽ nhận thấy minh "kiệt sức" cả về phương diện kỹ thuật cũng như sáng tạo. Đây là một hiện tượng hết sức bình thường khi bạn chuyển tiếp từ một giai đoạn này sang một giai đoạn khác trong nhiếp ảnh. Vậy thì trong nhiếp ảnh có tất cả bao nhiêu giai đoạn? Chúng ta hãy nghe Jean-Claude Lemagny, một trong những người nhiệt thành nhất với "Nhiếp ảnh sáng tạo", phân biệt 3 giai đoạn trong tiến trình phát triển của một nghệ sĩ nhiếp ảnh:

1. Đầu tiên là những năm tháng học hỏi mà các yếu tố kỹ thuật chiếm hết thời gian và sức lực của bạn. Ta thường tìm cách bắt chước tác phẩm của các bậc thầy nổi tiếng trong nhiếp ảnh, cố tìm hiểu nhữung bí ẩn làm nên thanh công, đọc nghiến ngấu những bài trả lời phỏng vấn của họ.

2. Tiếp theo là đến giai đoạn chín muồi hơn mà ta tin tưởng chắc chắn là đã hoàn thiện về kỹ thuật. Ta sẽ chán ngấy những ai chỉ nói về nhiếp ảnh qua các loại máy ảnh, ống kính...Trong giai đoạn thứ hai này chỉ có yếu tố thẩm mỹ là điều quan trọng nhất, những khái niệm sẽ thay thế cho các cuộc tranh luận hời hợt. Điều nguy hiểm nhất là "tự tin" rằng minh đã đạt tới đỉnh cao nhất trong nhiếp ảnh, nó hoàn toàn sai lầm đơn giản bởi vì còn có một giai đoạn thứ 3 nữa.

3. Giai đoạn cuối cùng này chính là lúc ta nhận thấy rằng để có thể giải quyết hoàn hảo những vấn đề trong thẩm mỹ (cái đẹp) thì ta lại phải quay về với kỹ thuật. Nói tóm lại chính nhiếp ảnh gia sẽ tự tìm kiếm lấy các phương tiện kỹ thuật để hoàn thiện công việc sang tác của mình. Giống như một chuyên gia về ảnh đen trắng sẽ đi tìm một loại hóa chất thỏa mãn tất cả các tong xám mà anh ta tìm kiếm. Đó chính là Depardon, người sử dụng từng than máy và ống kính káhc biệt cho mỗi một thể loại hình ảnh hay là Jeff Wall, người trưng bày các tác phẩm của minh trong một "hộp sáng". Đó cũng chính là những người chuyển sang sử dụng "Moyen Format" hay các hộp tối (Large Format), lý do không chỉ đơn giản nằm trong độ sắc nét mà nó còn vì khoảng cách, tiếp cận. Đó chính là một nhiếp ảnh gia về sắc mầu đi tìm kiếm và thử nghiệm tất cả các loại phim, các loại giấy để tìm cho riêng minh một "tông"...

Trước kỹ nguyên của kỹ thuật số thì điều này đã rất chính xác (theo ý kiến cá nhân của Người Thăng Long) và bây giờ điều ấy lại thêm một lần nữa được chứng minh. Thực tế cho thấy có rất nhiều nhiếp ảnh gia tìm hiểu những "mánh" kỹ thuật về máy quét phim, máy in, một chiếc dCam hay dSLR...Những nhiếp ảnh gia này đã nhận thấy rằng họ cần nắm vững các kỹ thuật mới để có thể hành nghề. Bạn không nên tin vào những nghệ sĩ ru rú trong "ổ" của minh nhé. Đa số các nhiếp ảnh gia đều đi xem triển lãm, quan sát những người khác làm việc, lấy cảm hứng, so sánh, tìm thông tin về một kỹ thuật in ảnh, khuôn hình, kết quả chung cuộc...Với sự xuất hiện của kỹ thuật số thì chưa bao giờ các nhiếp ảnh gia có được trong tay những khả năng về kỹ thuật đa dạng như thế cả. Về mặt tinh thần thì chưa bao giờ kỹ thuật lại gắn bó mật thiết đến thế với cái đẹp. Với một điều kiện là không khuôn hẹp kỹ thuật lại trong việc khoe khoang thiết bị hay tranh luận như các nhà...nghiên cứu khoa học. Nhất định là không thể như thế! Yếu tố kỹ thuật là một câu hỏi cực kỳ quan trọng mà ta có thể lấy ví dụ khi muốn tạo một bản in mầu bằng máy in phun mực (liệu các nhà sưu tập có mua chúng không?) hay lựa chọn cách lưu trữ ảnh kỹ thuật số (chọn thiết bị nào? Liệu các CD, DVD có thể đọc được trong 30 năm nữa không?)

8. Bố cục của hình ảnh 

Bố cục, tức là làm cho các bộ phận khác nhau hợp thành một thể thống nhất. Bức ảnh là sự hợp nhất của nhiều yếu tố khác nhau tuỳ theo từng trường hợp, chân dung, phong cảnh hay cảnh sinh hoạt v.v...Trong mọi trường hợp, bao giờ cũng có một yếu tố nổi bật, chủ đề chính tạo nên lý do tồn tại của bức ảnh đó. Trong nhiều trường hợp, ảnh còn chứa đựng nhiều yếu tố phụ khác (những yếu tố này có thể trở thành yếu tố chính trong một bức ảnh khác), nhưng chúng chỉ đóng vai trò làm tôn yếu tố chính lên mà thôi. Chúng nói lên một cảnh huống nào đó, một thời điểm nào, một tầm vóc nào đó trong không gian...

Bố cục một bức ảnh là đặt yếu tố phụ trong vị trí so sánh với yếu tố chính sao cho yếu tố này bao giờ cũng nổi bật. tuy nhiên ở mỗi thể loại có những cách bố trí khác nhau. Khi chụp tĩnh vật, ta có thể di chuyển vị trí của vật này, vật kia. Dùng ánh sáng và bóng tối, ta cũng có khả năng tạo nên một tổng thể hoà hợp. Chụp chân dung cũng vậy. Nhưng chụp phong cảnh thì người chụp lại không có những khả năng ấy. Nói như vậy có phải là người chụp phải bó tay và không thể bố cục hình ảnh theo ý muốn của mình không? Không phải. Người chụp có khả năng khuôn hình, chụp đối tượng ở gần hay xa, chọn điểm nhìn, hướng máy so với hướng ánh sáng...

Nói như vậy để chứng tỏ là, trong mọi trường hợp, với mọi đối tượng-nếu ta có thời gian-người chụp đều có thể tạo ra được một hình ảnh bố cục tốt. Bằng việc sử dụng có suy tính hay theo bản năng các yếu tố khác nhau, bố cục hình ảnh thực sự là một nghệ thuật. Một số người coi bố cục là một kỹ thuật. Theo chúng tôi, người ta không thể "giảng dạy" việc bố cục hình ảnh bởi vì có quá nhiều yếu tố tham gia vào đó: mỗi yếu tố riêng nó có thể là lý do tồn tại của bức ảnh.

Muốn đi dến chỗ bố cục được một bức ảnh "cổ điển", một hình ảnh có cơ cấu tốt, ta có thể nghĩ đến một vài điểm đáng chú ý sau đây:

- Sự thống nhất của đối tượng, mà chúng ta đã nói đến.
- Tìm kiếm một sự không đối xứng nào đó.
- Cảm giác về chiều sâu
- Sự hài hoà giữa chất liệu của vật thể với ánh sáng chiếu vào chúng, giữa các màu sắc cạnh nhau v.v...

Tìm kiếm một sự không đối xứng

Nên đặt mô tip chính ở đâu? xin trả lời "ở bất kỳ đâu cũng được, trừ ở điểm giữa bức ảnh". Chủ đề chính ở giữa của bức ảnh thì hình ảnh nhiều khi có vẻ tầm thường, không sức sống. Mỗi bức ảnh thực vậy có những điểm mạnh mà mắt ta hay nhìn vào.

Tuy không nêu nên thành một định luật cơ bản, song ta nhận xét thấy rằng những "điểm mạnh" ấy thường hay rơi vào điểm giao tiếp giữa các đường tưởng tượng chi bức ảnh ở một phần ba. Đặt chủ đề chính vào một trong 4 điểm mạnh ấy ta sẽ có một bố cục không đối xứng.

Khi trong ảnh phong cảnh có đường chân trời, ta chớ nên để đường cơ bản ấy chia đôi hình ảnh ở giữa. Đặt như vậy thì phần trời và phần đất (hoặc nước) ngang nhau, và ta sẽ có một bố cục rất tầm thường, người xem không biết ta định giới thiệu những đám mây trên trời, hay những đợt sóng trên biển. Trái lại, nếu ta chụp cảnh trời lúc hoàng hôn rất đẹp, ta nên đặt đường chân trời ở khoảng cách một phần ba phía dưới bức ảnh để cho phần trời quan trọng hơn. Nhưng nếu ta chụp một cảnh đồi phủ tuyết với đường nét đẹp đẽ dưới bầu trời mùa đông tẻ nhạt thì ta chỉ nên dành cho một phần ba bức ảnh ở phía trên mà thôi.

bố cục không đối xứng, dựa vào việc sử dụng một điểm mạnh, làm nổi bật yếu tố chính. Con mắt người xem sẽ đi từ điểm chính đó đến các điểm khác trong bức ảnh.

Cảm giác về chiều sâu

Cảm giác về chiều sâu, sự phân cách giữa các lớp cảnh, mà ta có thể thay đổi bằng cách chọn điểm nhìn, bằng phối cảnh không trung, bằng khu vực nét sâu, bằng ánh sáng, góp một phần quan trọng vào thành công của bức ảnh. Ống kính máy ảnh có thể dễ dàng cung cấp cho con mắt ta khi nhìn vào ảnh cảm giác về không gian ba chiều. Nhờ đó mà các vật thể không bị bẹp dí, mà cái nọ trước cái kia như trong thực tế.

Sự hài hoà

Sự hài hoà là cái chất xi măng có khả năng gắn bó các yếu tố rời rạc của một bức ảnh lại với nhau... Sự hài hoà, đó có thể là những mối quan hệ được tạo ra giữa các vật thể trong một bức tranh, cái nọ gọi cái kia.

- Sự hài hoà về đối tượng: biển, trời, bãi cát, chim hải âu...
- Sự hài hoà của đường nét: đường chân trời, các lớp đất trải dài, bãi bể...
- Sự hài hoà giữa các sắc độ và mảng khối: đồi núi, cây...
- Sự hài hoà màu sắc: hoa mào gà trên cánh đồng...

Sự hài hoà là tất cả những yếu tố trên đây mà người chụp phải biết cách nhìn và ghi lại đúng lúc.
Nguồn tin: Sưu tầm